(Tiểu Ananda nhép y theo Chánh kinh “Tam Minh”, số 13, Trường Bộ 1)
1. Như vầy tôi nghe.
2. Một thời bây giờ Đức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn hàng ngàn năm.
Trong thời hiện tại, cũng có nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào ở tại Bắc phương như Bà-la-môn Tịnh Độ, Bà-la-môn Thiền Tông, Bà-la-môn Hoa Nghiêm, Bà-la-môn Pháp Hoa, Bà-la-môn Mật Tông và nhiều Bà-la-môn trứ danh, đại phú hào khác.
3. Lúc bây giờ, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa Bà-la-môn Lạc Đạo và Bà-la-môn Mật Xa trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng, vừa đi vừa suy nghĩ tư duy.
4. Thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo nói:
- Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơiTây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Bụt. Ðó là con đường do Bà-la-môn Tịnh Độ giảng dạy.
5. Thanh niên Bà-la-môn Mật Xa nói:
- Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơiTây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Chú. Đó là con đường do Bà-la-môn Mật Tông giảng dạy.
6. Thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Mật Xa, và thanh niên Bà-la-môn Mật Xa cũng không thể thuyết phục được thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo.
7. Khi ấy thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo nói với thanh niên Bà-la-môn Mật Xa:
- Này Mật Xa, có một Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, xuất gia từ gia đình Phật tử chính thống, nay trú ở phương Nam, tại một vườn xoài trên bờ sông Chánh Pháp, phía Bắc làng Chánh Đạo. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về các Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời". Này Mật Xa, hãy đến Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn và hỏi Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn về việc nghị luận này, và Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
- Tôn giả, xin vâng!
Thanh niên Bà-la-môn Mật Xa trả lời với thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo.
8. Lúc bây giờ hai thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo và Mật Xa đến Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, khi đã đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn và ngồi xuống một bên, khi ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo bạch Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn:
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa hai chúng tôi trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng vừa đi vừa suy nghĩ, tư duy. Tôi nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Bụt, đó là con đường do Bà-la-môn Tịnh Độ giảng dạy". Thanh niên Bà-la-môn Mật Xa nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Chú. Đó là con đường do Bà-la-môn Mật Tông giảng dạy". Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, đó là sự tranh luận, sự luận chấp, đó là sự bất đồng ý kiến.
9. - Này Đạo Lạc, Ngươi nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Bụt. Ðó là con đường do Bà-la-môn Tịnh Độ giảng dạy". Còn thanh niên Bà-la-môn Mật Xa nói như vầy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo pháp môn niệm Chú. Đó là con đường do Bà-la-môn Mật Tông giảng dạy". Nhưng này Đạo Lạc, ở nơi đây cả hai tranh biện cụ thể về vấn đề gì, luận chấp cụ thể về vấn đề gì và bất đồng ý kiến cụ thể về vấn đề gì?
10. – Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, về vấn đề chánh đạo và tà đạo. Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, nhiều Bà-la-môn hiện nay thuyết dạy nhiều con đường sai khác như các vị Bà-la-môn Đại Xa, các vị Bà-la-môn Tư Án, và các Bà-la-môn Long Xà, Phế Thân, Vô Phước. Các Bà-la-môn này đều dạy rằng tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Niết Bàn Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo. Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, như gần làng hay gần trị trấn có nhiều con đường sai khác, nhưng tất cả con đường này đều dẫn đến làng. Cũng vậy, có tám mươi bốn ngàn Bà-la-môn thời đại thuyết dạy tám vạn bốn ngàn con đường sai khác - như các vị Bà-la-môn Đại Xa, các vị Bà-la-môn Tư Án, các Bà-la-môn Long Xà, Phế Thân, Vô Phước. Tất cả con đường này hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Niết Bàn Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo.
11. - Này Đạo Lạc, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến?"
- Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Đạo Lạc, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
- Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Đạo Lạc, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
- Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn dến".
12. - Thế nào Đạo Lạc? Có Bà-la-môn nào trong những Bà-la-môn lai tạp tận mặt đã thấy Tây-phương-lạc-cực?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có vị nào. Trừ khi họ “thấy” bằng tưởng.
- Thế nào Đạo Lạc? Có sư tổ nào của các Bà-la-môn lai tạp đã tận mặt thấy Tây-phương-lạc-cực?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có vị nào. Trừ khi họ “thấy” bằng tưởng.
- Thế nào Đạo Lạc? Có Bà-la-môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của những vị Bà-la-môn lai tạp đã tận mặt nhìn thấy Tây-phương-lạc-cực?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có vị nào. Trừ khi họ “thấy” bằng tưởng.
13. - Thế nào, này Đạo Lạc. Những vị tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn cổ đại, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những vị Bà-la-môn tinh thông các kinh cải biến cũng hát lên, trì tụng và ngâm giảng như các vị Ba-la-mật-mửa, Lăng Giả, Lăng Điên, Dại Bi, Đà-la-si, những vị này có nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy chỗ ở Tây-phương-lạc-cực, chỗ đến Tây-phương-lạc-cực, chỗ đi Tây-phương-lạc-cực?"
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có vị nào. Trừ khi họ “thấy” bằng tưởng.
14. - Này Đạo Lạc, như vậy Ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị lai tạp đã tận mặt thấy Tây-phương-lạc-cực; không có một sư tổ nào của các Bà-la-môn lai tạp đã tận mặt thấy Tây-phương-lạc-cực, không có một đại tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông các kinh cải biến đã tận mặt thấy Tây-phương-lạc-cực; không có một Bà-la-môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn lai tạp đã tận mắt thấy Tây-phương-lạc-cực; trong những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn cổ đại, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn lai tạp cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Ba-la-mật-mửa, Lăng Giả, Lăng Điên, Dại Bi, Đà-la-si, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Tây-phương-lạc-cực ở đâu, Tây-phương-lạc-cực từ đâu đến, Tây-phương-lạc-cực sẽ đi đâu".
Như vậy, các Bà-la-môn lai tạp đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo".
Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, không hợp lý?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, không hợp lý.
15. - Này Đạo Lạc, những Bà-la-môn lai tạp không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo", thật không thể có sự kiện ấy.
Này Đạo Lạc, ví như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Như vậy, này Đạo Lạc lời nói của những Bà-la-môn lai tạp, người đầu không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Giống như lời nói mù quáng, lời nói của những Bà-la-môn lai tạp như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng.
16. - Này Đạo Lạc, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn lai tạp như phần đông nhiều người khác - có thể thấy sao mai, mặt trời không, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ sao mai, mặt trời mọc và lặn?
- Thưa vâng, Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, các Bà-la-môn lai tạp như phần đông nhiều người khác có thể thấy sao mai, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay đảnh lễ chỗ sao mai, mặt trời mọc và lặn.
17. - Này Đạo Lạc, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn lai tạp - như phần đông nhiều người khác thấy sao mai, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ sao mai mặt trời mọc và lặn, những vị này có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với sao mai, mặt trời không? Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với sao mai, mặt trời cho những ai thực hành theo?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không thể được!
18. - Này Đạo Lạc, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn lai tạp như phần đông nhiều người khác, thấy sao mai, mặt trời trong khi các vị này cầu khẩn tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay và đảnh lễ chỗ sao mai, mặt trời mọc và lặn, những vị này không có thể thuyết dạy con đường đưa đến sự cộng trú với sao mai, mặt trời: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với sao mai, mặt trời cho những ai thực hành theo".
Ngươi cũng nói các Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các tôn sư của những Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các đại tôn sư của các Bà-la-môn lai tạp cũng không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực.
Ngươi cũng nói trong những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn cổ đại, những vị sáng tác các thần chú, được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn thời đại cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Ba-la-mật-mửa, Lăng Giả, Lăng Điên, Dại Bi, Đà-la-si, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Tây-phương-lạc-cực ở đâu, Tây-phương-lạc-cực từ đâu đến, Tây-phương-lạc-cực sẽ đi đâu".
Này Đạo Lạc, những nơi mọi người thấy sờ sờ trước mắt như sao mai, mặt trời mà còn chưa đến được, còn chưa biết được; huống hồ những nơi không biết không thấy như cõi Tây-phương-lạc-cực.
Như vậy các Bà-la-môn lai tạp đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo". Này Đạo Lạc, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, không hợp lý?"
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thời lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, không hợp lý.
19. - Lành thay, này Đạo Lạc! Những Bà-la-môn lai tạp không biết, không thấy con đường đưa đến cọng trú nơi Tây-phương-lạc-cực mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo". Thật không có sự kiện ấy.
Này Đạo Lạc, như có người nói: "Tôi yêu và ái luyến một cô gái đẹp trong nước này". Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp mà Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết là người giai cấp nào, là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?" Khi được hỏi, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp Ông yêu và ái luyến ấy, Ông có biết tên gì, họ gì, lớn người, thấp người hay người bậc trung? Da đen sẩm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, ấp nào, hay thành phố nào?" Khi được hỏi vậy, người ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông đã yêu và đã ái luyến một người Ông không biết, không thấy?" Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia không chánh xác, hợp lý.
20. - Cũng vậy, này Đạo Lạc, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các đại tôn sư của các Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn lai tạp, cũng không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực.
Ngươi cũng nói những tu sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn cổ đại, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia các thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn lai tạp cũng hát lên, cũng trì tụng và giảng dạy như các vị Ba-la-mật-mửa, Lăng Giả, Lăng Điên, Dại Bi, Đà-la-si, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Tây-phương-lạc-cực ở đâu, Tây-phương-lạc-cực từ đâu đến, Tây-phương-lạc-cực sẽ đi đâu".
Như vậy các Bà-la-môn lai tạp đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo". Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, hợp lý?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chánh xác, hợp lý.
21. - Lành thay, Đạo Lạc, những Bà-la-môn lai tạp không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo", thật không có sự kiện ấy.
Này Đạo Lạc, như một người muốn xây tại ngã tư đường một cái thang để leo lên lầu. Có người hỏi: "Này bạn, Ông muốn xây một cái thang để leo lên lầu, vậy Ông có biết lầu ấy là về hướng phải, hay về hướng trái, hay về hướng trước, hay về hướng sau? Nhà lầu ấy cao hay thấp, hay trung bình?". Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, như vậy có phải Ông xây một cái thang để leo lên một cái lầu mà Ông không biết, không thấy?". Hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. Này Đạo Lạc, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải lời nói người kia không chánh xác, hợp lý?
- Vâng phải, bạch Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn. Sự kiện là như vậy thời lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý.
22. - Cũng vậy, này Đạo Lạc. Ngươi nói rằng các Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các tôn sư của các Bà-la-môn lai tạp cũng không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các đại tôn sư của các Bà-la-môn lai tạp cũng không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực, các Bà-la-môn cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn lai tạp không thể tận mắt thấy được Tây-phương-lạc-cực.
Người cũng nói trong những ẩn sĩ thời cổ trong các Bà-la-môn cổ đại, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được bình tán và ngày nay những Bà-la-môn lai tạp cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy - như các vị Ba-la-mật-mửa, Lăng Giả, Lăng Điên, Dại Bi, Đà-la-si, không có một vị nào đã nói: "Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Tây-phương-lạc-cực ở đâu, Tây-phương-lạc-cực từ đâu đến, Tây-phương-lạc-cực sẽ đi đâu?"
Như vậy các Bà-la-môn lai tạp đã nói: "Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến sự cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo". Này Đạo Lạc, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông các kinh cải biến là không chánh xác, không hợp lý?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn lai tạp là không chính xác, hợp lý.
23. - Lành thay, Đạo Lạc. Những Bà-la-môn lai tạp không biết, không thấy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực mà thuyết dạy: "Ðây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực cho những ai thực hành theo". Thật không có sự kiện ấy.
24. Này Đạo Lạc, như sông Aciravati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người đứng bờ bên này kêu bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia, hãy lại đây! Bờ bên kia, hãy lại đây". Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không thể vậy.
25. - Cũng vậy, này Đạo Lạc, những Bà-la-môn lai tạp, loại bỏ những pháp tác thành người Sa-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Sa-môn, những vị này đã nói: "Chúng tôi cầu khẩn Bụt, chúng tôi cầu khẩn chư Thần, chúng tôi cầu khẩn các Thánh, chúng tôi cầu khẩn Táo Bà, chúng tôi cầu khẩn Trời, chúng tôi cầu khẩn Đất, chúng tôi cầu siêu, chúng tôi cầu an, chúng tôi niệm chú. Này Đạo Lạc, những Bà-la-môn tinh thông các kinh cải biến ấy, loại bỏ những pháp tác thành người Sa-môn - vì kêu gọi, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán, sau khi thân hoại mạng chung, những vị ấy sẽ cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực, thật không có sự kiện ấy.
26. Này Đạo Lạc, như sông Aciravati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tiến đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia, và muốn lội qua bờ bên kia. Người này đứng bên bờ này kêu bờ bên kia và nói: "Bờ bên kia hãy lại đây! Bờ bên kia hãy lại đây!" Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không thể vậy.
27. - Cũng vậy, này Đạo Lạc, có năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh. Năm pháp này được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục, ái lạc; những tiếng do tai cảm nhận... những hương do mũi cảm nhận... những vị do lưỡi cảm nhận.. những xúc do thân cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc. Này Đạo Lạc, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của bậc Thánh. Này Đạo Lạc, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy, các Bà-la-môn lai tạp chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, đã tận hưởng năm pháp ấy.
28. - Này Đạo Lạc, những Bà-la-môn tinh thông các kinh cải biến, loại bỏ những pháp tác thành người Sa-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Sa-môn, chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly của chúng, tận hưởng chúng, bị trói buộc bởi sự trói buộc của dục lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực, thật không có sự kiện ấy.
29. Này Đạo Lạc, như sông Acivarati này, đầy tràn cho đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có sự việc bên bờ bên kia, tìm đến bờ bên kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội qua bờ bên kia. Người này ở bên bờ này trùm đầu và nằm ngủ. Này Đạo Lạc, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Người ấy có thể từ bên này của sông Aciravati đến bờ bên kia không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có thể được.
30. - Cũng vậy, này Đạo Lạc, có năm triền cái được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm? Dục cái, sân cái, hôn trầm thụy miên cái, trạo hối cái, nghi cái. Này Đạo Lạc, năm triền cái này được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là triền phược. Này Đạo Lạc, các Bà-la-môn lai tạp, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái này, không biết thoát ra.
Này Đạo Lạc, thật vậy, những Bà-la-môn lai tạp, loại bỏ những pháp tác thành người Sa-môn, tuân theo những pháp không tác thành người Sa-môn, bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy, bị trói buộc bởi năm triền cái, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực, thật không thể có sự kiện ấy.
31. Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe những Sa-môn niên cao lạp trưởng, tôn sư và đại tôn sư cùng nhau nói chuyện không? Tây-phương-lạc-cực có dục ái hay không dục ái?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có dục ái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
- Thưa, không có hận tâm.
- Có sân tâm hay không sân tâm?
- Thưa, không có sân tâm.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Thưa, không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Thưa, có tự tại.
32. - Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Các Bà-la-môn lai tạp có dục ái hay không dục ái?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, có dục ái nhưng khéo che dấu, không biết cách chỉ dạy đoạn trừ dục triền cái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
- Thưa, có hận tâm nhưng khéo che dấu, không biết cách chỉ dạy đoạn trừ hận triền cái.
- Có sân tâm hay không có sân tâm?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, có sân tâm nhưng khéo che dấu, không biết cách chỉ dạy đoạn trừ sân triền cái.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Thưa, có nhiễm tâm nhưng khéo che dấu, vì không hộ trì các căn, không giữ nghiêm giới luật.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Thưa, không có tự tại nhưng khéo che dấu. Có chăng, chỉ là cửa miệng, nói suông, không chỉ dạy cụ thể.
33. - Này Đạo Lạc, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn lai tạp là có tham ái, Tây-phương-lạc-cực không có tham ái. Giữa các Bà-la-môn lai tạp là có tham ái và nơi Tây-phương-lạc-cực không có tham ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không thể có được.
34. - Lành thay, Đạo Lạc. Này Đạo Lạc, những Bà-la-môn lai tạp có dục áiấy sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực - Thật không thể có sự kiện ấy.
35. Này Đạo Lạc, Ngươi nói rằng các Bà-la-môn lai tạp có hận tâm, Tây-phương-lạc-cực không có hận tâm... các Bà-la-môn lai tạp là có sân tâm, Tây-phương-lạc-cực không có sân tâm... các Bà-la-môn lai tạp là có nhiễm tâm, Tây-phương-lạc-cực không có nhiễm tâm... các Bà-la-môn lai tạp không có tự tại, Tây-phương-lạc-cực có tự tại.
Giữa các Bà-la-môn lai tạp có hận tâm, có sân tâm, có nhiễm tâm, không có tự tại và Tây-phương-lạc-cực không có hận tâm, không có sân tâm, không có nhiễm tâm, có tự tại có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không thể có được.
36. - Lành thay, Đạo Lạc. Này Đạo Lạc, những vị Bà-la-môn lai tạp sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực - Thật không thể có sự kiện ấy.
Này Đạo Lạc, ở đời các Bà-la-môn thời đại dầu có tinh thông các kinh cải biến, khi các vị này ngồi (với sự tự tín), thật sự đang chìm (trong bùn lầy), và khi đang chìm (trong bùn lầy) phải sống trong thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối với những Bà-la-môn lai tạp sự tinh thông ấy được gọi là bãi sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy cũng được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh.
37. Khi nghe vậy, thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo bạch Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn:
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, tôi có nghe nói Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn biết con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực.
- Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có người sinh trưởng ở làng Chánh Đạo, nhưng chưa bao giờ rời khỏi chỗ này. Có người hỏi con đường đưa đến làng Chánh Đạo. Này Đạo Lạc, đối với người ấy đã sinh trưởng ở làng Chánh Đạo này, chắc không có gì nghi ngờ hay khó khăn thì phải?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, thật không có gì nghi ngờ hay khó khăn. Vì cớ sao? Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, người ấy sinh trưởng ở làng Chánh Đạo đều biết rõ tất cả con đường đưa đến làng Chánh Đạo.
38. - Này Đạo Lạc, đối với người ấy đã sinh trưởng ở làng Chánh Đạo, còn có thể nghi ngờ và có khó khăn hỏi đến con đường đưa đến làng Chánh Đạo nhưng đối với Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn thì không có nghi ngờ hay khó khăn gì khi hỏi đến Tây-phương-lạc-cực giới hay con đường đưa đến Tây-phương-lạc-cực giới! Này Đạo Lạc, Ta biết đến Tây-phương-lạc-cực, Tây-phương-lạc-cực giới và con đường đưa đến Tây-phương-lạc-cực giới.
39. Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo bạch Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn:
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, tôi đã nghe: "Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, giảng dạy con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực". Lành thay, nếu Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn thuyết dạy con đường đưa đến cọng trú nơi Tây-phương-lạc-cực! Mong Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn tế độ chúng Bà-la-môn thời đại!
- Này Đạo Lạc, vậy hãy lóng nghe và khéo tác ý kỹ, Ta sẽ nói.
- Dạ, xin vâng.
40. - Này Đạo Lạc, nay ở đời đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni đã xuất hiện, Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Như Lai ấy sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm-thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
41. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sinh ở một giai cấp khác nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi có lòng tin ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
42. Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp, thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri túc.
43. Này Đạo Lạc, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc?
Ở đây, này Đạo Lạc, Tỷ-kheo từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh... do lạc thọ, tâm được định tĩnh... chứng và trú thiền thứ nhất, ... (như kinh Sa-môn quả, số 2, Trường Bộ 1, đoạn kinh số 43-75, với những thay đổi thích hợp).
76. Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với Từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
77. Này Đạo Lạc, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Đạo Lạc, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, câu hữu với Từ. Này Đạo Lạc, đó là con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực.
78. Lại nữa, này Đạo Lạc, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với Bi... với tâm câu hữu với HỶ... biến mãn một phương với tâm câu hữu với Xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Bi, với Hỷ, với Xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
79. Này Đạo Lạc, như người lực sĩ thổi tù và khiến tiếng được nghe khắp bốn phương, không có gì khó khăn, cũng vậy này Đạo Lạc, đối với mọi hình thức của sự sống, không có ai là vị ấy bỏ qua hay bỏ sót mà không biến mãn với tâm giải thoát, cùng khởi với Bi, với Hỷ, với Xả. Này Đạo Lạc, đó là con đường đưa đến cộng trú nơi Tây-phương-lạc-cực.
80. Này Đạo Lạc, Ngươi nghĩ thế nào? Vị Tỷ-kheo Thanh Văn an trú như vậy là có dục ái hay không dục ái?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, không có dục ái.
- Có hận tâm hay không có hận tâm?
- Thưa, không có hận tâm.
- Có sân tâm hay không có sân tâm?
- Thưa, không có sân tâm.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Thưa, không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Thưa, có tự tại.
81. Này Đạo Lạc, Ngươi nói Tỷ-kheo Thanh Văn không có dục ái, Tây-phương-lạc-cực không có dục ái. Giữa Tỷ-kheo Thanh Văn không có dục ái và nơi Tây-phương-lạc-cực không có dục ái, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, có thể có được.
82. - Lành thay, Đạo Lạc. Này Đạo Lạc, Tỷ-kheo Thanh Văn sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú nơi Tây-phương-lạc-cực. Thật có thể có sự kiện ấy.
Này Đạo Lạc, Ngươi nói Tỷ-kheo Thanh Văn không có hận tâm, Tây-phương-lạc-cực không có hận tâm... Tỷ-kheo Thanh Văn không có nhiễm tâm, Tây-phương-lạc-cực không có nhiễm tâm. Tỷ-kheo Thanh Văn có tự tại, Tây-phương-lạc-cực có tự tại.
Giữa Tỷ-kheo Thanh Văn không có hận tâm, không có sân tâm, không có nhiễm tâm, có tự tại và nơi Tây-phương-lạc-cực không có hận tâm, không có sân tâm, không có nhiễm tâm, có tự tại, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Thưa Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, có thể có được.
83. - Lành thay, Đạo Lạc. Này Đạo Lạc, Tỷ-kheo Thanh Văn sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú nơi Tây-phương-lạc-cực. Sự kiện ấy thật có thể có.
84. Khi nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Lạc Đạo và Mật Xa bạch Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn! Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.
Và nay chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Nguyên Thủy đệ tử Thế Tôn nhận chúng con làm người hộ độ; từ này trở đi cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.
TIỂU ANANDA