Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2018

49 ĐẠI NGUYỆN CỦA CHÚ CUỘI - GIÁO CHỦ CÕI CÂY ĐA XÀ (SAU NÀY CƯU MA LA THẬP CỦA ĐẠI THỪA BẮT CHƯỚC RỒI VẼ RA 48 ĐẠI NGUYỆN CỦA A DI ĐÀ)

Nguyện thứ 1: Lúc tôi thành Cuội, nếu trong cõi Cung Trăng, có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 2: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 3: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, thân chẳng màu vàng tất cả, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 4: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 5: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng chẳng có Túc mạng thông, ít nhất là biết rõ những việc trăm nghìn ức na do tha kiếp (vô số kiếp) thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 6: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, chẳng đặng Thiên nhãn thông, ít nhất là thấy rõ trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư Cuội, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 7: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, chẳng được Thiên nhĩ thông, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Cuội, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 8: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng chẳng được Tha tâm thông, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh, trong trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 9: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, chẳng đặng thần túc thông, khoảng một niệm, ít nhất là đi qua khỏi trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 10: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 11: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, chẳng trụ định tu, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 12: Lúc tôi thành Cuội, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất cũng chiếu thấu trăm nghìn na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 13: Lúc tôi thành Cuội, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất cũng đến trăm nghìn na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 14: Lúc tôi thành Cuội, chúng Thanh Văn trong cõi Cung Trăng, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Cuội đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 15: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 16: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, còn có người nghe danh từ bất thiện thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 17: Lúc tôi thành Cuội, nếu vô lượng chư Cuội thập phương thế giới, chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu tôi, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Cuội, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi Cung Trăng, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Cuội, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi Cung Trăng, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Cuội, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi Cung Trăng, và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi Cung Trăng, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 21: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, tất cả chẳng đủ ba mươi hai tướng đại nhơn, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 22: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về Cung Trăng, cứu cánh đều quyết đến bực Nhứt sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng, tụ tại hóa hiện, vì chúng sanh mà thoát hoằng thệ nguyện, tu các công đức, độ thoát mọi loài, đi khắp thế giới, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Cuội, khai hóa vô lượng chúng sinh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng Dóc Tổ, siêu xuất công hạnh của các bực thông thường, hiện tiền tu tập Đại nguyện của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 23: Lúc tôi thành Cuội, các Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, thừa thần lực của Cuội, mà đi cúng dường thập phương chư Cuội, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 24: Lúc tôi thành Cuội, các Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, khi ở trước thập phương chư Cuội, hiện công đức của mình, muốn có những vật cúng dường, nếu không có được, tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 25: Lúc tôi thành Cuội, nếu chúng Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, không được Nhứt thiết trí, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 26: Lúc tôi thành Cuội, nếu chúng Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, chẳng đều được thân kim cương Na La Diên, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 27: Lúc tôi thành Cuội, thì trong cõi Cung Trăng, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp sạch sẽ, rất tột vi diệu, dầu là người được thiên nhãn cũng không có thể tính biết. Nếu có người biết danh số các đồ vật ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 28: Lúc tôi thành Cuội, nếu Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 29: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 30: Lúc tôi thành Cuội, nếu có ai hạn lượng được trí tuệ biện tài của Bồ Tát trong cõi Cung Trăng, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 31: Lúc tôi thành Cuội, cõi Cung Trăng thanh tịnh, các nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số không thể nghĩ bàn thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 32: Lúc tôi thành Cuội, trong cõi Cung Trăng từ mặt đất tràn lên đến hư không, lầu nhà cung điện ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương, hiệp chung lại mà thành; vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới. Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy, thời đều tu hạnh của Cuội. Nếu chẳng như thế, tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 33: Lúc tôi thành Cuội, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chiếu đến nhẹ nhàng hơn thiên nhơn, nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Cuội, các loài chúng sanh tong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp nhẫn, cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Cuội, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàn ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh, mãi đến thành Cuội. Nếu chẳng được như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 37: Lúc tôi thành Cuội, hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 38: Lúc tôi thành Cuội, hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 39: Lúc tôi thành Cuội, hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng không được sự hưởng thụ vui sướng bằng vị Tỉ Khưu đã dứt hết mọi phiền não, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 40: Lúc tôi thành Cuội, nếu hàng nhơn thiên trong cõi Cung Trăng, tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Cuội ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu, đúng theo ý muốn, như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 41: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành, mà các căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 42: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát, ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Cuội Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh niệm. Nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 43: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung đều được thác sanh chốn Tôn quí, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 44: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hơn hở, tu Bồ Tát hạnh, trọn đủ công đức, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 45: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ tam muội này mãi đến lúc thành Cuội, thường được thấy Vô lượng bất tư nghị tất cả chư Cuội. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 46: Lúc tôi thành Cuội, chúng Bồ Tát ở trong cõi Cung Trăng, muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 47: Lúc tôi thành Cuội, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bực bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 48: Lúc tôi thành Cuội, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được Đệ nhất âm hưởng nhẫn, ở nơi Cuội pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Dóc Tổ.
Nguyện thứ 49Ai chứng minh được những lời nguyện của Cuội tôi là láo khoét, ba sạo, hứa lèo, hứa cuội; Cuội tôi sẽ gả chị Hằng Nga cho và còn ban 10 Tiên Nữ cõi Cung Quảng Hàm hầu hạ. Cũng như vua Diêu Tần đã ban 10 cung nữ cho ngài Cưu Ma La Thập, một đại sư Đại Thừa vừa là soạn giả, dịch giả và luận giả của cuốn kinh A-di-đà. Còn những ai tin Cuội tôi cứ thực hành theo tất cũng sẽ được như các Tịnh Độ tử của phái A-mi-tò-phò. Bụt A-di-đà đã phát đại nguyện cứu độ chúng sanh, chẳng lẽ Cuội tôi không dám noi gương ngài.
A-di-đà Bụt!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH LA TO NHƯ CUỘI
----------------------
Ghi chú: Chuyện Cưu Ma La Thập dám nhận và loạn dâm với cả 10 cung nữ từ vua Diêu Tần ban cho dựa theo “Cao Tăng Dị Truyện” và"Tranh Biện”  của Xích Liên xuất bản, 1929 - 1932, quyển Thượng, trang 151–169. Nguồn Internet.
Cưu Ma La Thập (344-413), người Ấn Độ, sống sau Phật 1000 năm, cũng là tác giả của cuốn luận A-di-đà ca ngợi hết lời cho kinh A-di-đà do chính mình giới thiệu và chuyển dịch (?!) Việc vẽ ra một cuốn kinh giả rồi viết thêm một cuốn luận thật nhằm khiến những kẻ ngây thơ tin ngay cuốn kinh giả đó, chuyện này một tên gián điệp hạng bét cũng thừa biết và thừa sức thực hiện, chỉ có những kẻ khờ dại mới không hiểu mà thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét