Hai đạo sĩ cùng bị thác sanh vào địa ngục, liền khấu kiện Diêm Vương. Cả hai than khóc, tấu nỗi oan khiên:
_ Thưa Diêm Vương, hẳn là có sự nhầm lẫn. Cả đời chúng tôi không làm ác, chí tâm hành đạo, thế nhưng vì sao chết lại bị đọa vào địa ngục thế này?
_ Các ông không làm ác như thế nào? Diêm Vương hỏi.
Đạo sĩ thứ nhất mau miệng:
_ Dạ thưa, tôi luôn tâm niệm và giảng dạy mọi người phải biết xem thường pháp thấp của Tiểu Thừa, không chấp vào nhị biên, phải theo đại giáo cao siêu để thấy “Phiền não tức Bồ-đề”…
Ngay lập tức Diêm Vương đập bàn, quát:
_ Thì giờ đây ngươi được vào địa ngục đầy phiền não để tha hồ hưởng thọ “Bồ-đề” của mình, còn đòi hỏi gì nữa?
Diêm Vương hất hàm nhìn đạo sĩ thứ hai. Vị này rụt rè, sợ hãi:
_ Dạ, còn con chỉ cả đời sách tấn, khuyên ngăn mọi người đừng theo pháp của hàng Thanh Văn hạ căn thiểu trí, mà phải tu theo Bồ-tát đại hạnh, lấy “Sanh tử là Niết Bàn”…
Diêm Vương lại gầm lên:
_ Chính nơi đây chứ còn đâu nữa, mỗi phút giây trong địa ngục này, ngươi đều được chết đi sống lại nhiều lần để tha hồ chứng nghiệm “Niết Bàn” của mình. Nghiệp báo này do chính các ngươi tạo ra, chứ còn ai vào đây?
Cả hai đạo sĩ vẫn còn ấm ức:
_ Nhưng thưa ngài, chúng tôi chỉ y kinh mà nói.
_ Kinh gì?
_ Dạ, kinh Đại Thừa.
_ Xuất hiện lúc nào?
_ Sau khi Phật nhập diệt hàng trăm năm.
_ Do ai kết tập và xiển dương?
_ Thưa, do các bồ tát, tổ sư, luận sư gốc Bà-la-môn.
Nghe đến đây Diêm Vương nhỏm hẳn người dậy:
_ Đó, đó chính là chỗ đáng tội của các ngươi, cứ nghe càn tin bậy để rồi ôm giữ tà kiến.
Hai oan gia cố biện bạch:
_ Nhưng các vị đại luận sư của chúng tôi, ai nấy cũng đều quy y Phật, cạo đầu đắp y, các kinh văn do họ kết tập đều ghi là Phật thuyết.
_ Những kẻ gián điệp muốn phá Phật pháp không làm nổi việc như thế hay sao? Chẳng lẽ họ lại tự vỗ ngực xưng tên rồi bảo các ông quay lại chê bai kinh thật, pháp thật để cho bị tẩy chay à? Họ chỉ có một cách duy nhất là ngụy trá làm gián điệp, giả danh lời Phật mới dụ được những kẻ cả tin như các ông, mới xúi được các ông chống báng khinh thường chính nguồn gốc của mình, rõ chưa? Ai đã từng khuyến cáo các ông chớ có tin càn cho dù đó là kinh điển, truyền thống hay đạo sư của mình? (1)
Nói xong, Diêm Vương chỉ tay về hướng một tội nhân đang phải chịu cực hình khủng khiếp, cất tiếng hỏi hai vị oan gia:
_ Các ngươi có biết tội nhân ấy là ai không?
Cả hai đạo sĩ nhìn nhau rồi lắc đầu:
_ Thưa không.
Diêm Vương thở phì:
_ Các ngươi đã nghe đến cái tên “Migalaṇḍika” bao giờ chưa?
Hai đạo sĩ càng ngơ ngác hơn nữa:
_ Dạ chưa.
Diêm Vương ngán ngẫm:
_ Đúng là ngây thơ, thiếu trí tuệ như các ngươi nên mới cả tin, mắc bẫy những kẻ gián điệp ngụy trá mà không biết. Migalaṇḍika chính là một sa-môn giả hiệu ngay trong thời Đức Phật, y chui vào hàng ngũ tăng đoàn để thừa cơ hội mỗi ngày giết chết hàng chục vị Tỳ-kheo. Các ngươi không tin hãy mở tạng luật Pātimokkha mà đọc. (2)
Diêm Vương chỉ tay sang một đám đông tội nhân khác, nạt lớn:
_ Bên cạnh Migalaṇḍika còn có rất nhiều các sa-môn, Bà-la-môn khác mang dã tâm phá hoại Chánh Pháp và giờ đây bọn họ đang phải trả giá cho tội ác của mình. Có kẻ bỏ công theo dõi Đức Phật hàng tháng trời để tìm sơ hở sai lầm của Đức Thế Tôn nhằm vu cáo phỉ báng Ngài. Lại còn những kẻ ác tâm khác như Potaliputta, Sonakāyana, Sanjaya, Nigantha Nataputta, Magandiya, Lohicca, Paccaniikasāta, Vassakāra,Bhāradvāja, Brahandu v.v... tất cả bọn họ đều biết ngụy trá rằng chính tai họ nghe Phật nói thế này, dạy thế kia để xuyên tạc lời Phật, đánh lừa con Phật, phá hoại Phật Pháp. Các ngươi không tin hãy đọc kỹ kinh Nikaya sẽ rõ. (3).
Thở dài một hơi, Diêm Vương chép miệng ngao ngán:
_ Chánh pháp không đọc, đi đọc tà pháp. Chánh đạo không dạy, đi dạy tà đạo. Đại nhân quân tử không tin, đi tin tiểu nhân nguỵ trá. Tội ấy do ai? Có phải các ngươi đã bị oan như... Thị Mầu không?
Đến đây cả hai tội nhân cúi đầu im lặng. Diêm Vương nghiêm giọng:
_ Như ta đây còn biết, chỉ có “diệt phiền não mới chứng được Bồ-đề của Phật”, phải “đoạn sanh tử mới đắc Niết Bàn của Như Lai”. Chỉ có những kẻ chấp tà kiến, tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn, tưởng tri Bồ-đề là Bồ-đề mới nói như các ngươi. Đức Phật đã nhiều lần tuyên bố, “Kẻ ôm tà kiến chỉ có hai sanh thú: địa ngục hoặc bàng sanh” (4). Vì các ngươi đã mang tà kiến lại còn đi gieo rắc tà kiến cho kẻ khác nên làm bàng sanh cũng không được. Vào địa ngục là đúng, còn oan khuất gì nữa?
Nói xong, Diêm Vương quay sang bọn ngục tốt hét lớn:
_ Bay đâu! Hãy cho hai tà kiến nhân này vào chung ngục hình với các tiền bối của họ để tất cả cùng hưởng thọ “Bồ-đề phiền não” và “Niết-bàn sanh tử” của họ, làm gương cho những kẻ khác, mau lên!
Phán Quan
----------------------------
(2) Chương Pārājika thứ ba, Phân Tích Giới Tỳ-khưu I
(3) Vài kinh điển hình trong hàng trăm dẫn chứng:
Trung Bộ số 36, 58, 75, 90, 136...
Tăng Chi Bộ: (AN 3:57-128), (AN 4: 35 - 187 - 233), (AN 8:12), (AN 10:94)...
Tương Ưng Bộ: (S.i,113 - 122 - 161 - 179), (S.iv,116 - 330)...
Tiểu Bộ: (SN 12 - 80), (Ud 13 - 28 - 38 - 39 - 44 - 51 - 60 - 78 - 79...)
(4) Kinh Tương Ưng (S.iv,306) + (S.iv,308)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét